|
1.Nguồn gốc
Tết Nguyên Đán bắt nguồn từ nền văn minh lúa nước ở Đông Á, du nhập từ Trung Hoa và được Việt Nam phát triển thành nét văn hóa riêng. Nhà sử học Trần Văn Giáp trong bài viết "Nguồn gốc Tết Nguyên đán ở Việt Nam" năm 1963 (Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I giới thiệu) cũng phân tích, "Tết" hiểu theo gốc chữ Hán là chữ "Tiết", nghĩa là "thời tiết" tức là "Bát tiết" và "khí tiết"."Bát tiết" theo chữ Hán là Tám ngày thay đổi khí hậu (khí tiết) trong bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông, gồm: Lập Xuân, Lập Hạ, Lập Thu, Lập Đông, Xuân phân, Thu phân, Hạ chí và Đông chí.Trong tiếng Việt, Tết hay tiết là dịp hội hè, cũng là dịp lễ vui vẻ, bát tiết của Việt Nam không phải là Lập xuân, Xuân phân... mà là những ngày Tết có cúng lễ, gồm: Nguyên đán, Thượng nguyên, Hàn thực, Đoan ngọ, Trung nguyên, Trung thu, Thường tân, Đông chí.Trong tám ngày Tết ấy, Nguyên đán là ngày tết đầu năm, cho nên gọi là Tết Cả, cùng với các tết khác, ở các đình, chùa, đền, miếu đều có cúng lễ linh đình, ở các nhà thờ họ, các nhà riêng đều có làm cỗ bàn cúng lễ và hội họp vui vẻ.
2.Khái niệm Tết Nguyên Đán là dịp lễ lớn nhất trong năm, đánh dấu ngày đầu tiên của năm Âm lịch, là thời điểm tiễn năm cũ, đón năm mới, bày tỏ lòng biết ơn tổ tiên và hy vọng một năm tốt đẹp.
3.Ý nghĩa
- Văn hóa: Gìn giữ truyền thống dân tộc như thờ cúng tổ tiên, gói bánh chưng, chúc Tết.
- Gia đình: Dịp đoàn tụ, sum họp, gắn kết tình thân.
- Tâm linh: Cầu mong bình an, may mắn trong năm mới.
- Xã hội: Thúc đẩy tinh thần đoàn kết, sẻ chia trong cộng đồng.
|
|